Ai học kinh tế đều biết các mặt hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) có chi phí...
Ai học kinh tế đều biết các mặt hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) có chi phí cao nhất nằm ở marketing, mà chủ yếu nằm ở chí phí nghiên cứu, quảng cáo và phân phối, dẫn đến giá bán thương mại cao hơn giá thành có khi tới vài lần. Thậm chí giới kinh tế coi một số công ty FMCG như Cocacola là công ty marketing chứ không phải công ty sản xuất, vì chi phí sản xuất chiếm tỉ trọng cực nhỏ trong giá thành, tốn kém nhất là đưa nó lên giờ vàng Thời Sự và cắt chiết khấu cho BigC, VinMart, Circle K...
Thời thế chiến 2, ở Anh cấm quảng cáo bơ thực vật trên truyền hình, vì đất nước khi đó áp dụng chế độ phân phối, nên cần làm thế để tránh tình trạng kén cá chọn canh. Hãng nào quảng cáo sẽ không được bán sản phẩm. Có một hãng đã chấp nhận không bán hàng để được quảng cáo dày đặc với giá rất rẻ dù không có hàng trên kệ, đó là Unilever. Sau khi chiến tranh kết thúc, công ty này trở thành nhãn hàng bơ thực vật số 1 thị trường.
Người tiêu dùng bị định hướng bởi quảng cáo, kết hợp với khả năng tiếp cận chuỗi phân phối bán lẻ của từng nhãn hàng, từ đó tiêu thụ các sản phẩm khác nhau. Các sản phẩm đồng nhất không khác nhau nhiều về công nghệ sản xuất, ai không tin có thể đi thăm quan hai nhà máy của 2 hãng FMCG cạnh tranh ngang phân thì sẽ rõ, cơ bản chỉ khác nhau về màu sơn nhà xưởng và đồng phục công nhân.
Mặt hàng sữa là một ví dụ, theo thống kê của Nielsen thì đối với một công ty sữa điển hình là Vinamilk, chi phí xây dựng thương hiệu tốn 5,7% doanh thu, chi phí bán hàng chiếm 6,2%, cá biệt có những sản phẩm có tỉ lệ chiết khấu đại lý lên tới hàng chục %, chưa kể vô vàn chi phí lặt vặt khác.
Các chi phí này đương nhiên tính vào giá thành, khiến giá sữa bán ra tương đối cao. Điều này tốt ở góc độ kinh tế, chưa kể lợi ích kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ, marketing, bán lẻ... nhưng chưa chắc tốt về mặt xã hội, vì sữa là mặt hàng thiết yếu cho sự phát triển của trẻ nhỏ, đặc biệt là đối với một đất nước có chiều cao trung bình quá thấp như Việt Nam, giá sữa cao sẽ khiến việc tiếp cận trở nên khó khăn hơn.
Chương trình sữa học đường với sự trợ giá từ nhà nước, và một phần được hỗ trợ từ doanh nghiệp, là một chủ trương đúng, hài hoà lợi ích của cả 2 bên. Trên thực tế phần doanh nghiệp hỗ trợ lấy từ cắt giảm chi phí marketing và chiết khấu bán lẻ của chính họ và cả một phần lợi nhuận để phục vụ sứ mệnh xã hội của doanh nghiệp, điều này đem lại lợi ích cho cả 2, dù lợi ích nhiều hơn thuộc về các cháu học sinh.
Việc nghi ngại chất lượng sữa dành cho chương trình là chính đáng, dù xác suất này cực nhỏ, vì đối tượng giám sát chất lượng nguồn sữa này ngoài bộ y tế, nhà trường, thì còn một lực lượng quan trọng nữa chính là các đối thủ cạnh tranh. Hãy tin rằng họ sẽ rất vui khi tình cờ phát hiện ra dù chỉ một lô sữa của đối thủ không đạt chuẩn.
Một vụ bê bối sữa học đường sẽ có thể đánh sập cả một thương hiệu tỉ đô, thì doanh số nhỏ bé của chương trình này không đáng để các nhãn hàng phải liều mạng làm láo, thậm chí tôi tin rằng họ sẽ cố gắng cung cấp loại sữa tốt nhất có thể, để phục vụ mục đích PR.
Làm người, ai chẳng muốn dành điều tốt đẹp nhất cho con em nhưng phải nhớ rằng, ngoài tử cung trong 9 tháng thai kỳ ra thì chẳng có chỗ nào vô trùng hay an toàn tuyệt đối, sống phải có niềm tin vào những điều tốt đẹp, thì mới có thể nuôi dạy con trở thành người tử tế.
Yêu con, là cho con hành trang đầy đủ để lớn lên và phát triển, để một ngày bước trên đường đời bằng đôi chân dài thườn thượt, nhờ được uống sữa hàng ngày từ tuổi mầm non.
facebook Chung Nguyen
Thời thế chiến 2, ở Anh cấm quảng cáo bơ thực vật trên truyền hình, vì đất nước khi đó áp dụng chế độ phân phối, nên cần làm thế để tránh tình trạng kén cá chọn canh. Hãng nào quảng cáo sẽ không được bán sản phẩm. Có một hãng đã chấp nhận không bán hàng để được quảng cáo dày đặc với giá rất rẻ dù không có hàng trên kệ, đó là Unilever. Sau khi chiến tranh kết thúc, công ty này trở thành nhãn hàng bơ thực vật số 1 thị trường.
Người tiêu dùng bị định hướng bởi quảng cáo, kết hợp với khả năng tiếp cận chuỗi phân phối bán lẻ của từng nhãn hàng, từ đó tiêu thụ các sản phẩm khác nhau. Các sản phẩm đồng nhất không khác nhau nhiều về công nghệ sản xuất, ai không tin có thể đi thăm quan hai nhà máy của 2 hãng FMCG cạnh tranh ngang phân thì sẽ rõ, cơ bản chỉ khác nhau về màu sơn nhà xưởng và đồng phục công nhân.
Mặt hàng sữa là một ví dụ, theo thống kê của Nielsen thì đối với một công ty sữa điển hình là Vinamilk, chi phí xây dựng thương hiệu tốn 5,7% doanh thu, chi phí bán hàng chiếm 6,2%, cá biệt có những sản phẩm có tỉ lệ chiết khấu đại lý lên tới hàng chục %, chưa kể vô vàn chi phí lặt vặt khác.
Các chi phí này đương nhiên tính vào giá thành, khiến giá sữa bán ra tương đối cao. Điều này tốt ở góc độ kinh tế, chưa kể lợi ích kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ, marketing, bán lẻ... nhưng chưa chắc tốt về mặt xã hội, vì sữa là mặt hàng thiết yếu cho sự phát triển của trẻ nhỏ, đặc biệt là đối với một đất nước có chiều cao trung bình quá thấp như Việt Nam, giá sữa cao sẽ khiến việc tiếp cận trở nên khó khăn hơn.
Chương trình sữa học đường với sự trợ giá từ nhà nước, và một phần được hỗ trợ từ doanh nghiệp, là một chủ trương đúng, hài hoà lợi ích của cả 2 bên. Trên thực tế phần doanh nghiệp hỗ trợ lấy từ cắt giảm chi phí marketing và chiết khấu bán lẻ của chính họ và cả một phần lợi nhuận để phục vụ sứ mệnh xã hội của doanh nghiệp, điều này đem lại lợi ích cho cả 2, dù lợi ích nhiều hơn thuộc về các cháu học sinh.
Việc nghi ngại chất lượng sữa dành cho chương trình là chính đáng, dù xác suất này cực nhỏ, vì đối tượng giám sát chất lượng nguồn sữa này ngoài bộ y tế, nhà trường, thì còn một lực lượng quan trọng nữa chính là các đối thủ cạnh tranh. Hãy tin rằng họ sẽ rất vui khi tình cờ phát hiện ra dù chỉ một lô sữa của đối thủ không đạt chuẩn.
Một vụ bê bối sữa học đường sẽ có thể đánh sập cả một thương hiệu tỉ đô, thì doanh số nhỏ bé của chương trình này không đáng để các nhãn hàng phải liều mạng làm láo, thậm chí tôi tin rằng họ sẽ cố gắng cung cấp loại sữa tốt nhất có thể, để phục vụ mục đích PR.
Làm người, ai chẳng muốn dành điều tốt đẹp nhất cho con em nhưng phải nhớ rằng, ngoài tử cung trong 9 tháng thai kỳ ra thì chẳng có chỗ nào vô trùng hay an toàn tuyệt đối, sống phải có niềm tin vào những điều tốt đẹp, thì mới có thể nuôi dạy con trở thành người tử tế.
Yêu con, là cho con hành trang đầy đủ để lớn lên và phát triển, để một ngày bước trên đường đời bằng đôi chân dài thườn thượt, nhờ được uống sữa hàng ngày từ tuổi mầm non.
facebook Chung Nguyen
Nhận xét
Đăng nhận xét